XtGem Forum catalog
CHATTHUGIAN.MOBIE.IN
kính chào qúy khách

TRANG CHỦ
Truyện Teen   Ngôn Tình   Đam Mỹ   Bách Hợp   Tử Vi   Truyện Tranh  
Facebook  Xổ Số  Dịch  Tải Game  Báo  Tiền Ảo Bitcoin 

  Những đứa con của nửa đêm


Phan_24

Hiện thực có thể chứa đựng yếu tố ẩn dụ; điều này không làm nó ít thực hơn. Một ngàn lẻ một đứa trẻ ra đời; có một ngàn lẻ một khả năng trước đây chưa hề tồn tại hiện diện ở cùng một nơi; và có một ngàn lẻ một ngõ cụt. Lũ trẻ của nửa đêm có thể được lấy làm đại diện cho nhiều thứ, tùy vào góc nhìn của mỗi người: chúng có thể được xem như ván bài tối hậu của tất thảy những gì cổ hủ và lạc hậu ở đất nước chìm đắm trong thần thoại này của chúng tôi, mà sự thất bại, trong bối cảnh kinh tế hiện đại hóa thế kỷ 20, là điều hoàn toàn đáng mong ước; hoặc niềm hy vọng đích thực vào tự do, mà giờ đây đã bị triệt tiêu vĩnh viễn; nhưng chúng không thể nào là sự hư cấu kỳ quặc của một đầu óc lèm bèm, bệnh tật. Không: bệnh tật không có chỗ đứng ở đây.

“Được rồi, được rồi, baba,” Padma cố gắng vỗ về tôi. “Làm gì mà gắt gỏng thế? Ông nghỉ đi, nghỉ đi một tí, em chỉ yêu cầu có vậy thôi.”

Những ngày trước sinh nhật thứ mười của tôi hiển nhiên là một thời kỳ đầy ảo giác; song ảo giác không ở trong đầu tôi. Cha tôi, Ahmed Sinai, bị cái chết phản trắc của Bác sĩ Narlikar và ảnh hưởng ngày càng mạnh mẽ của tửu-tinh-và-tonic xô đẩy, đã lánh mình vào một cõi mộng của những ảo tưởng đáng lo ngại; và khía cạnh âm ỉ nhất trong sự suy sụp từ từ của ông đó là, suốt một thời gian dài, mọi người nhầm nó với điều hoàn toàn ngược lại... Này là mẹ của Sonny, Nussie-vịt-bầu, trò chuyện cùng Amina một tối nọ ngoài vườn: “Nhà chị độ này thật hạnh phúc, chị Amina, khi anh Ahmed nhà chị đương độ sung sức! Người đâu mà giỏi giang, vì gia đình phấn đấu làm ăn phát đạt thế đấy!” Cô ta nói đủ to cho ông nghe thấy; và mặc dù ông vờ như đang dặn bảo người làm vườn phải làm gì với cây hoa giấy héo, mặc dù ông làm ra vẻ khiêm tốn và nghiêm khắc với bản thân, nó vẫn rất không thuyết phục, bởi cái cơ thể núng nính của ông đã bắt đầu, mà ông không ý thức được, tỏ ra vênh váo và khệnh khạng. Ngay tới Purushottam, vị sadhu chán nản dưới vòi nước ngoài vườn, cũng thấy phát ngượng.

Người cha phai nhạt của tôi... suốt mười năm ông luôn có tâm trạng vui vẻ tại bàn ăn sáng trước khi cạo râu; nhưng khi râu ông ngả trắng theo nước da ngày một nhạt dần, cái điểm vui vẻ cố định này không còn là tất yếu nữa; và rồi cũng đến cái ngày lần đầu tiên ông nổi cáu vào bữa sáng. Đấy là cái ngày thuế được tăng lên và ngưỡng chịu thuế đồng thời bị hạ xuống; cha tôi ném tờ Thời báo Ấn Độ bằng một động tác dữ tợn và trợn mắt nhìn quanh bằng con mắt đỏ sọc mà tôi biết chỉ xuất hiện khi nào ông nổi giận. “Hệt như đi vệ sinh!” ông bùng nổ, một cách bí hiểm; trà trứng bánh mì run lẩy bẩy trước cơn thịnh nộ bộc phát. “Ta vén áo lên và tụt quần xuống! Bà nó, cái chính quyền này sẽ đi vệ sinh trên đầu chúng ta!” Và mẹ tôi, bừng đỏ dưới làn da ngăm đen, “Janum, bọn trẻ kìa, em xin anh,” nhưng ông đã sầm sập bỏ đi, để tôi lại với một ý niệm rõ ràng về hàm ý của người khác khi họ bảo đất nước này sẽ đi tiêu.

Trong những tuần tiếp theo cái cằm buổi sáng của cha tôi tiếp tục nhạt dần và không chỉ có sự bình yên ở bàn ăn sáng biến mất: ông bắt đầu quên mất người đàn ông đã từng là mình trong những ngày tháng trước sự phản bội của Narlikar. Những nề nếp của đời sống gia đình chúng tôi bắt đầu suy đồi. Ông bắt đầu tránh có mặt ở bàn ăn sáng, để Amina không thể dỗ tiền từ ông; nhưng, bù lại, ông trở nên bất cẩn với tiền bạc, quần áo ông thay ra còn đầy cả tiền giấy lẫn tiền xu, thế nên bằng cách móc túi ông bà vẫn kiếm được đủ tiêu. Nhưng một chỉ dấu đáng buồn hơn của việc ông rút ra khỏi cuộc sống gia đình là ông hầu như không kể chuyện cho chúng tôi vào giờ ngủ nữa, và nếu như ông có kể thì chúng tôi cũng không thích, bởi chúng đã trở nên nghèo tưởng tượng và kém thuyết phục. Đề tài thì vẫn vậy, hoàng tử quỷ lùn ngựa bay và những cuộc phiêu lưu đến các xứ sở diệu kỳ, nhưng từ giọng kể chiếu lệ của ông, chúng tôi có thể nghe ra những tiếng kẽo kẹt và rền rĩ của một trí tưởng tượng đang hoen gỉ, mục nát.

Cha tôi đã chìm đắm vào một con trầm mê. Hình như cái chết của Narlikar và sự chấm dứt của giấc mơ tetrapod đã cho Ahmed Sinai thấy bản chất bất trắc của quan hệ giữa người với người; ông quyết định dứt bỏ mọi mối liên hệ kiểu ấy. Ông chuyển sang thức dậy trước hừng đông và nhốt mình cùng cô ả Fernanda hay Flory hiện thời trong văn phòng ở tầng trệt, mà bên ngoài cửa sổ hai cây xanh cao đến độ ngăn hết hầu hết ánh sáng ban ngày lọt vào. Vì rằng bọn tôi hiếm khi dám làm phiền ông, cha tôi rơi vào một cơn cô đơn sâu, một trạng thái ít thấy ở đất nước quá đông đúc của chúng tôi đến mức gần như bất thường; ông bắt đầu từ chối thức ăn nhà nấu để sống bằng những của rẻ của ôi do cô ả thư ký mua về hằng ngày đựng trong cặp lồng, paratha nguội ngắt và samosa rau nhão nhoét và dăm chai nước có ga. Một mùi kỳ quái bay ra từ khe cửa văn phòng ông; Amina cho đó là hơi không khí tù đọng và thức ăn rẻ tiền; nhưng tôi tin rằng đó là mùi hương cũ, nay đã trở lại mạnh mẽ hơn, cái mùi xa xưa của thất bại từng lởn vởn quanh ông từ buổi ban đầu.

Ông bán tháo nhiều chung cư và nhà tập thể ông đã mua với giá rẻ ngày mới tới Bombay, nền tảng cho sự phát đạt của gia đình tôi. Nhằm giải phóng mình khỏi mọi mối quan hệ làm ăn với nhân loại – kể cả với những khách trọ vô danh ở Kurla và Worli, ở Matunga và Mazagaon, và Mahim – ông thanh lý bất động sản, để bước vào không gian bí hiểm và trừu tượng của đầu cơ tài chính. Nhốt mình ở văn phòng, vào những ngày ấy, mối liên hệ duy nhất của ông với thế giới bên ngoài (trừ các ả Fernanda tội nghiệp) là chiếc điện thoại. Suốt ngày ông chìm trong những cuộc đàm thoại với thiết bị này, trong khi nó rót tiền của ông vào cổ phần abc hay cổ phiếu xyz, trong khi nó đầu tư vào trái phiếu chính phủ hoặc cổ phiếu mất giá, bán thường hay bán khống theo lệnh ông... và luôn luôn kiếm được giá hời nhất trong ngày. Với một chuỗi vận may chỉ có thể sánh ngang với thành công của mẹ tôi với bầy ngựa nhiều năm trước, cha tôi và chiếc điện thoại ào ạt đổ bộ vào thị trường chứng khoán, một chiến công còn ấn tượng hơn khi xét đến tật nghiện rượu ngày một nặng của Ahmed Sinai. Say sưa túy lúy, thế nhưng ông vẫn ngất ngưởng trên những con sóng trừu tượng của thị trường tiền tệ, phản ứng trước những biến động và thay đổi ngẫu hứng, khó lường của nó theo cách một chàng trai phản ứng trước từng ý tưởng phù phiếm nhỏ nhất của người mình yêu... ông cảm nhận được khi nào một cổ phiếu lên giá, khi nào thì đạt đỉnh; và bao giờ ông cũng rút ra trước khi sụt giá. Đây là cách ông ngụy trang việc đắm mình trong nỗi cô đơn trừu tượng của những ngày ôm điện thoại, cách những thắng lợi tài chính của ông đã che giấu sự đoạn tuyệt từ từ của ông với hiện thực; nhưng dưới vỏ bọc của khối tài sản liên tục sinh sôi ấy, tình trạng của ông ngày một tệ hơn.

Rốt cuộc cô ả thư ký mặc váy hoa cuối cùng của ông cũng bỏ đi, không sống nổi trong một bầu không khí loãng và trừu tượng đến mức khó thở; bấy giờ cha tôi gọi Mary Pereira tới và dỗ cô bằng, “Mary, chúng ta là bạn, phải không, ta và chị?” và người đàn bà tội nghiệp đáp, “Vâng, sahib, em biết; ông sẽ chăm nom em lúc em về già,” và hứa giúp ông tìm người thay thế. Hôm sau cô dắt em mình đến, Alice Pereira, người đã làm việc với mọi loại ông chủ và có một sức chịu đựng gần như vô biên với đàn ông. Alice cùng Mary đã làm lành từ sau vụ cãi vã về Joe D’Costa; cô em thường lên gác chơi với tụi tôi vào cuối ngày, mang nét tươi tắn và hoạt bát của cô đến bầu không khí có phần ngột ngạt ở nhà tôi. Tôi mến cô, và từ cô chúng tôi mới biết về những hành vi cực đoan nhất của cha tôi, mà nạn nhân là một con vẹt đuôi dài và một con chó lai.

Đến tháng Bảy, Ahmed Sinai đã bước vào một trạng thái say xỉn gần như triền miên; một hôm, Alice kể lại, ông bỗng nhiên lái xe đi mất, làm cô lo nhỡ ông bị làm sao, và bằng cách nào đó rồi cũng trở về được với một cái lồng chim phủ vải, trong đó, theo lời ông, là con chim ông mới mua, một con bulbul hay họa mi Ấn Độ. “Có Chúa mới biết,” Alice tiết lộ, “ông nói về chim bulbul với tôi trong bao lâu; đủ mọi chuyện thần tiên về tiếng hót của chúng; một vị Calipha bị tiếng hót ấy mê hoặc ra sao, tiếng hót ấy có thể kéo dài thêm vẻ đẹp của đêm thế nào; có Chúa mới biết con người khốn khổ ấy lảm nhảm điều gì, trích dẫn hết tiếng Ba Tư tới Ả Rập, tôi chẳng hiểu mô tê gì. Nhưng khi ông bỏ tấm phủ ra, trong lồng chẳng có gì khác ngoài một con vẹt biết nói, chắc là một gã lừa đảo nào đấy ngoài chợ Chor đã sơn lại lông con vật! Tôi biết nói làm sao với con người tội nghiệp ấy, quá háo hức với con chim, cứ ngồi đó gọi, “Hót đi, bulbul bé nhỏ! Hót đi!”... mà buồn cười lắm, ngay trước khi chết vì ngộ độc sơn nó cứ nhại lại lời ông, nguyên xi như thế - không cà cộ kiểu chim đâu, mà bằng giọng của chính ông: “Hót đi! Bulbul bé nhỏ, hót đi!”

Nhưng như thế chưa phải là tệ nhất. Mấy ngày sau khi đang ngồi cùng tôi trên cầu thang xoắn ốc của người hầu, Alice bảo, “Baba, tôi không hiểu bây giờ bố cậu bị sao nữa. Cả ngày cứ ngồi đó nguyền rủa con chó!”

Con chó lai mà nhà tôi gọi là Sherri đã lững thững leo lên ngọn đồi hai tầng từ đầu năm và cứ thế nhận chúng tôi là chủ, không hề biết đời là một cuộc hiểm nguy đối với động vật ở Điền trang Methwold; và trong cơn say Ahmed Sinai đã biến nó thành con chuột lang cho thí nghiệm của ông về lời nguyền của gia tộc.

Đây chính là lời nguyền hư cấu ông đã tưởng tượng ra nhằm gây ấn tượng với William Methwold, song giờ đây ở những khoang hóa lỏng của tâm trí ông các tửu tinh thuyết phục ông rằng đó không phải là hư cấu, chỉ là ông đã quên mất những lời đó; vậy là ông ở lì hàng giờ liền trong cái văn phòng cô độc đến phát điên để thí nghiệm công thức... “Ôi những lời nguyền rủa ông ấy trút lên con vật tội nghiệp!” Alice nói, “tôi tự hỏi vì sao nó còn chưa lăn ra chết!”

Nhưng Sherri vẫn ngồi một góc và nhe răng cười ngớ ngẩn với ông, dứt khoát không ngả tím[9] hay mọc nhọt, cho đến mộ tối nọ, ông bừng bừng rời khỏi văn phòng và lệnh cho Amina chở cả nhà đến Hornby Vellard. Sherri cũng đi theo. Chúng tôi tản bộ, mặt mũi ngơ ngác, dọc theo Vellard, rồi ông bảo, “Tất cả, lên xe.” Có điều ông không cho Sherri lên... khi chiếc Rover do cha tôi cầm lái tăng tốc chạy đi, nó bắt đầu đuổi theo chúng tôi trong khi con Khỉ gào thét Bốơibốơi còn Amina cầu xin Janumđừngmà còn tôi câm bặt trong kinh hãi, chúng tôi phải chạy hàng cây số, gần hết đường tới sân bay Santa Cruz, trước khi ông báo thù được con chó cái vì nhất định không quy phục tà thuật của ông... nó vỡ một động mạch khi đang chạy và chết ộc máu ra từ miệng và hậu môn, dưới cái nhìn của một con bò đói.

[9] Rushdie dùng khái niệm “ngả tím” (turn purple) với nghĩa kép, vừa có nghĩa là tím mặt lại vì tức giận, vừa nghĩa là trở thành quý tộc. Thời La Mã và Byzantine màu tím là màu áo đặc trưng của hoàng đế. Tiếng Anh có thành ngữ born in the purple, nghĩa là sinh ra trong gia đình quyền quý. Ở đây ám chỉ việc Ahmed Sinai bốc phét với Methwold rằng nhà ông là dòng dõi các hoàng đế Mughal.

Con Khỉ Đồng (vốn không hề thích chó) khóc mất một tuần liền; mẹ tôi đâm lo nó mất nước, bắt nó uống hàng gallon[10], tưới nước vào nó, theo lời Mary, như thể nó là một bãi cỏ; riêng tôi thì khoái con cún cha tôi mua tặng tôi nhân dịp tôi sinh nhật mười tuổi, hành động có lẽ xuất phát từ một thoáng ăn năn: tên nó là Nữ nam tước Simki von der Heiden, và nó có một cây phả hệ đầy lèn những con chó nòi Alsace đoạt chức vô địch, mặc dù sau này mẹ tôi phát hiện ra con này cũng giả chả khác gì con bulbul nhái, cũng hư cấu chả khác gì lời nguyền bị lãng quên và tổ tiên Mughal của cha tôi; và sáu tháng sau nó chết vì bệnh hoa liễu. Kể từ đó nhà tôi không nuôi con gì nữa.

[10] Một gallon = 4,55 lít.

Cha tôi không phải là người duy nhất hướng đến sinh nhật thứ mười của tôi với tâm trí u mê trong mây mù của những giấc mơ; bởi vì còn có Mary Pereira, mải mê theo đuổi thú làm chutney, kasaundy và rau quả dầm đủ kiểu, và bất chấp vẻ hớn hở bề ngoài của cô em Alice, gương mặt cô vẫn có vẻ gì đó ám ảnh.

“Xin chào, Mary!” Padma – người dường như đã sinh lòng thương cảm người ayah tội lỗi của tôi – chào đón cô trở lại sân khấu. “Điều gì dằn vặt cô ấy vậy?”

Thế này, Padma: bị hành hạ vì những cơn ác mộng giày vò của Joseph D’Costa, Mary ngày càng khó ngủ hơn. Biết rõ những giấc mơ gì đang đợi mình, cô ép mình thức; mắt cô thâm quần, bao phủ một lớp màng mỏng, mờ đục; và dần dần, sự mờ ảo trong cái nhìn của cô đã pha trộn tỉnh và mơ thành hai thứ rất giống nhau... một tình trạng rất nguy hiểm, Padma. Không chỉ công việc bị ảnh hưởng, mà có những thứ trong mơ bắt đầu thoát ra ngoài. Trên thực tế, Joseph D’Costa đã vượt qua ranh giới mơ hồ ấy, và bắt đầu xuất hiện tại Biệt thự Buckingham, không phải dưới dạng ác mộng, mà như một con ma thực thụ. Chỉ bị mình Mary Pereira (ở thời điểm này) nhìn thấy, gã bắt đầu ám cô ở khắp nơi trong nhà tôi, nơi gã, trước nỗi kinh hãi và hổ thẹn của cô, thản nhiên coi như nhà mình. Cô nhìn thấy gã trong phòng khách, ở giữa đám bình pha lê và tượng sứ Dresden và bóng quạt trần xoay tròn, uể oải ngồi trên ghế bành, đôi chân dài rách rưới vắt qua tay ghế; cặp mắt trắng dã và bàn chân đầy vết rắn cắn. Một lần cô thấy gã trên giường Amina Begum vào buổi chiều, nằm giãi thẻ ngay cạnh mẹ tôi đang ngủ, và cô bật thốt, “Ê, này! Cút ra khỏi đây! Ngươi tưởng ngươi là ai, quý tộc à?” - nhưng chỉ khiến mẹ tôi ngơ ngác thức dậy. Hồn ma Joseph theo ám Mary trong câm lặng; và điều đáng sợ nhất là cô thấy mình bắt đầu quen với gã, cô thấy những rung động yêu thương bị lãng quên cựa mình thức dậy trong cô, và mặc dù tự nhủ như thế là rồ dại, trong cô bắt đầu tràn đầy thứ tình yêu hoài vọng với linh hồn gã hộ lý đã chết.

Nhưng tình yêu ấy không được đáp lại; cặp mắt trắng dã của Joseph luôn luôn vô cảm; môi gã luôn luôn một nụ cười nghiệt ngã, nhạo báng; và rốt cuộc cô nhận ra rằng cái hồn ma mới này cũng chẳng khác gì gã Joseph-trong-mơ trước kia (mặc dù nó không xỉ vả cô), và để vĩnh viễn thoát khỏi gã cô sẽ phải làm điều không tưởng là thú nhận tội ác của mình với mọi người. Nhưng cô không thú nhận, có lẽ đấy là lỗi của tôi – bởi vì Mary yêu tôi như đứa con trai không hoài thai và không thể hoài thai của chính cô, và nếu thú nhận cô sẽ làm tôi tổn thương ghê gớm, thế nên vì tôi cô chịu đựng hồn ma của lương tâm và đứng bếp trong tình trạng bị ma ám (cha tôi một tối say mèm đã đuổi người đầu bếp) nấu bữa tối cho gia đình tôi, và trở thành, một cách tình cờ, hiện thân của dòng mở đầu cuốn sách dạy tiếng Latin của tôi, Ora Maritima: “Bên bờ biển, người ayah nấu ăn.” Ora Maritima, ancilla cenam parat. Nhìn vào mắt của người ayah nấu ăn, rồi ta sẽ thấy nhiều hơn mọi cuốn sách giáo khoa.

Vào sinh nhật thứ mười của tôi, rất nhiều gà sẽ về chuồng.

Vào sinh nhật thứ mười của tôi, rõ ràng là thời tiết bất thường – bão, lũ, mưa đá khi trời không một gợn mây – tiếp nối cái nóng không chịu nổi của năm 1956, đã phá hỏng Kế hoạch Năm Năm lần thứ hai. Chính phủ buộc phải – mặc dù kỳ bầu cử đang tới gần – thông báo với quốc tế rằng Ấn Độ không thể tiếp nhận thêm viện trợ phát triển, trừ phi bên cho vay sẵn lòng dãn nợ vô thời hạn. (Tuy vậy, tôi sẽ không phóng đại tình hình: tuy sản lượng thép thành phẩm chỉ đạt 2,4 triệu tấn khi kết thúc Kế hoạch vào năm 1961, và tuy, trong năm năm ấy, số người mất đất và thất nghiệp thực tế gia tăng, cao hơn suốt thời thuộc địa Anh, song cũng có những thành tựu đáng kể. Sản lượng sắt tăng gần gấp đôi; sản lượng điện đã tăng gấp đôi; sản lượng than tăng vọt từ 38 triệu lên 55 triệu tấn. Bốn triệu rưỡi mét vải cô tông được sản xuất hằng năm. Ngoài ra là một số lượng lớn xe đạp, máy công cụ, động cơ diesel, bơm nước và quạt trần. Nhưng tôi không thể không kết thúc bằng một điều đáng buồn: nạn mù chữ không suy suyển; dân số tiếp tục bùng nổ.)

Vào sinh nhật thứ mười của tôi, chúng tôi đón cậu Hanif đến chơi, người đã tự làm mình bị ghét ghê gớm tại Điền trang Methwold bằng cách cười hô hố, “Sắp bầu cử rồi! Hãy coi chừng đảng Cộng sản!”

Vào sinh nhật thứ mười của tôi, khi cậu Hanif lỡ lời, mẹ tôi (người đã bắt đầu biến mất trong những chuyến “đi mua sắm” bí ẩn) liền đỏ mặt tưng bừng một cách khó hiểu.

Vào sinh nhật thứ mười của tôi, tôi được tặng một con cún giống Alsace với một cây phả hệ giả, con vật rồi sẽ sớm chết vì bệnh giang mai.

Vào sinh nhật thứ mười của tôi, mọi người tại Điền trang Methwold đều cố tỏ ra vui vẻ, nhưng bên dưới lớp vecni mỏng này ai nấy đều bị ám ảnh chung một suy nghĩ: “Mười năm, lạy Chúa! Chúng đã đi đâu! Ta đã làm gì?”

Vào sinh nhật thứ mười của tôi, ông già Ibrahim tuyên bố ủng hộ đảng Maha Gujarat; xét đến chuyện chiếm hữu thành phố Bombay, ông già đã đặt cửa vào bên thua cuộc.

Vào sinh nhật thứ mười của tôi, một gương mặt đỏ bừng khơi dậy sự nghi ngờ trong tôi, tôi rình mò suy nghĩ của mẹ tôi; và những gì tôi thấy dẫn tôi đến chỗ theo dõi bà, đến chỗ trở thành một tay thám tử táo tợn như huyền thoại Dom Minto của Bombay, và đến những khám phá trọng đại ở và trong vùng phụ cận của quán café Pioneer.

Vào sinh nhật thứ mười của tôi, tôi có một bữa tiệc, với sự có mặt của gia đình tôi, vốn đã quên mất cách vui vẻ, của đám bạn cùng lớp từ trường Cathedral, được bố mẹ gửi đến, và một số tay bơi nữ của bể bơi Breach Candy, mấy con bé vẫn cho con Khỉ Đồng lân la chơi cùng và nắn cơ bắp của chúng; về phía người lớn, có Mary và Alice Pereira, nhà Ibrahim và Homi Catrack và cậu Hanif và Mợ Pia, và Lila Sabarmati, người mà ánh mắt của cả lũ con trai (và cả Homi Catrack) đều dính chặt vào, trước vẻ khó chịu ra mặt của Pia. Nhưng thành viên duy nhất của hội trên đồi có mặt là thằng Sonny Ibrahim trung thành, người đã bất chấp lệnh cấm đối với bữa tiệc do một Evie Burns cay cú ban ra. Nó chuyển đến tôi một thông điệp: “Evie bảo nói với mày rằng mày bị trục xuất khỏi băng.”

Vào sinh nhật thứ mười của tôi, Evie, Mắt Chẻ, Tóc Dầu và cả thằng Cyrus-đại-đế xông vào chỗ trốn bí mật của tôi; bọn nó chiếm tháp đồng hồ, và tống tôi ra khỏi nơi trú ẩn.

Vào sinh nhật thứ mười của tôi, Sonny có vẻ không vui, và con Khỉ Đồng tách ra khỏi đám vận động viên bơi và cực kỳ tức giận Evie Burns. “Em sẽ cho nói một bài học,” nó bảo tôi. “Anh cứ yên tâm, anh trai; em sẽ cho nó nếm mùi.”

Vào sinh nhật thứ mười của tôi, bị một lũ trẻ bỏ rơi, tôi phát hiện ra năm trăm tám mươi mốt đứa trẻ khác cũng đang mừng sinh nhật; nhờ vậy tôi khám phá ra bí mật về giờ sinh gốc của mình; và, vừa bị trục xuất khỏi một băng, tôi quyết định tự lập băng của mình, cái băng sẽ trải suốt chiều dài và chiều rộng của đất nước, và có tổng hành dinh đặt sau hàng lông mày của tôi.

Vào sinh nhật thứ mười của tôi, tôi ăn cắp chữ viết tắt của Metro Cub Club – đồng thời cũng là tên viết tắt của hội cricket Anh đang du đấu – và lấy nó đặt cho Hội nghị Những đứa trẻ Nửa đêm[11], cái M.C.C. của chính tôi.

[11] Nguyên văn Mildnight Children’s Conference.

Khi tôi lên mười mọi chuyện như thế đấy: bên ngoài đầu tôi chỉ toàn rắc rối, ở trong thì toàn những sự diệu kỳ.

Chương 15: Ở quán café Pioneer

Không có màu gì ngoại trừ màu xanh và đen tường màu xanh trời màu đen (không có mái nhà) sao màu xanh mụ Góa phụ màu xanh nhưng tóc mụ thật đen. Mụ Góa phụ ngồi trên một cái ghế cao thật cao cái ghế màu xanh mặt ghế màu đen tóc mụ rẽ ngôi giữa bên trái thì xanh bên phải thì đen. Trời cao vòi vọi cái ghế thì xanh mặt ghế thì đen cánh tay mụ Góa phụ dài như thần chết da tay màu xanh móng tay dài và sắc và đen. Giữa bốn bức tường là lũ trẻ màu xanh tường màu xanh cánh tay mụ Góa phụ vươn dài như rắn con rắn màu xanh lũ trẻ rú lên móng tay mụ thì đen chúng cào cánh tay mụ Góa phụ đang lùa lũ trẻ chạy và rú lên bàn tay mụ Góa phụ cuốn quanh chúng xanh và đen. Và giờ từng đứa một bị tiếng ú ớ bị bóp nghẹt tay mụ Góa phụ nhấc lên từng đứa một lũ trẻ màu xanh máu chúng màu đen chảy ra dưới những móng tay khía vào tung tóe màu đen lên tường (màu xanh) cứ từng đứa một bàn tay cong cong nhấc lũ trẻ lên cao tít trên bầu trời đen kịt không có bóng sao mụ Góa phụ cười lưỡi mụ màu xanh nhưng răng mụ đen. Và lũ trẻ bị xé thành hai mảnh dưới hai bàn tay mụ Góa phụ chúng vo vo từng nửa đứa trẻ vo chúng thành những quả bóng nhỏ bóng màu xanh đêm màu đen. Và từng quả bóng nhỏ bay vào trời đêm giữa những bức tường lũ trẻ rú rít khi từng đứa một qua tay mụ Góa phụ. Và trong một góc con Khỉ với tôi (tường màu xanh bóng tối màu đen) bò rúm bò ró tường cao rộng xanh lẫn với đen không có mái nhà và bàn tay mụ Góa phụ vươn ra từngđứamột bọn trẻ thét lên và ú ớ và những quả bóng và bàn tay la thét và ú ớ và từng vũng đen bắn tung tóe. Giờ chỉ còn mụ và tôi không còn tiếng thét bàn tay mụ Góa phụ vươn ra lùa bắt lùa bắt da mụ xanh móng tay mụ đen xòe vào góc lùa bắt lùa bắt trong khi bọn tôi co rúm lại ở trong góc da bọn tôi màu xanh nỗi sợ màu đen và giờ Bàn Tay vươn tới vươn tới và nó em gái tôi đẩy tôi khỏi góc còn nó rúm ró ngó trân trân bàn tay móng tay cong cong la thét và ú ớ và màu đen bắn tung tóe và cao tít lên trời và mụ Góa phụ cười vang xé toang tôi đang vo thành những quả bóng bóng màu xanh và bay vào đêm đêm màu đen...

Hôm nay cơn sốt dứt. Suốt hai ngày (tôi nghe nói vậy) Padma ngồi thâu đêm bên tôi, đắp khăn lạnh lên trán tôi, ôm tôi qua từng cơn co giật và giấc mơ về bàn tay mụ Góa phụ; suốt hai ngày cô tự oán trách mình vì phương thuốc thảo dược vô danh của cô. “Nhưng,” tôi trấn an cô, “lần này, không phải vì thế đâu.” Tôi nhận ra cơn sốt này; nó xuất phát từ trong tôi chứ không phải đâu khác; giống như một mùi hôi, nó bốc ra qua những kẽ nứt của tôi. Tôi lên cơn sốt đúng như thế này vào ngày sinh nhật thứ mười, và nằm liệt giường hai ngày; giờ đây, khi ký ức bắt đầu rỉ khỏi tôi, cơn sốt cũ này đã trở lại. “Đừng lo,” tôi nói, “tôi nhiễm thứ vi khuẩn này từ gần hai mươi mốt năm trước.”

Ở đây không chỉ có chúng tôi. Đang là buổi sáng tại nhà máy rau quả dầm; mọi người đã đưa con trai tôi đến thăm tôi. Ai đó (là ai không quan trọng) đứng cạnh Padma bên giường tôi, bế con tôi trên tay. “Baba, ơn Chúa là anh đã khỏe, anh không hình dung nổi anh đã nói gì khi mê sảng đâu.” Ai đó lo lắng cất lời, cố gắng chen chân vào câu chuyện của tôi trước thời điểm; nhưng không ăn thua... ai đó, chủ nhân sáng lập nhà máy rau quả dầm này, cũng như công việc phụ trợ của nó là đóng chai, người đã chăm sóc đứa con không ai hiểu được của tôi, như đã từng... khoan đã! Chỉ một chút nữa là người này đã dụ được tôi nói ra, nhưng may thay tôi hãy còn tỉnh táo, dù có sốt hay không! Ai đó sẽ phải lùi lại và tiếp tục ẩn danh chờ đến lượt; và thế nghĩa là phải đợi đến phút chót. Tôi đưa mắt từ người đó sang Padma. “Chớ có nghĩ,” tôi quở trách cô, “rằng vì tôi sốt, mà những gì tôi kể không hoàn toàn chính xác. Mọi chuyện đã xảy ra đúng như tôi miêu tả.”

“Trời ơi, ông và những câu chuyện của ông,” cô kêu lên, “suốt ngày, suốt đêm – ông tự làm mình đổ ốm! Nghỉ đi một tí, nào, có chết ai đâu?” Tôi mím môi lại đầy bướng bỉnh; và giờ cô, đột nhiên đổi giọng: “Nào, nói em nghe: ông có thích món gì không?”


Phan_1
Phan_2
Phan_3
Phan_4
Phan_5
Phan_6
Phan_7
Phan_8
Phan_9
Phan_10
Phan_11
Phan_12
Phan_13
Phan_14
Phan_15
Phan_16
Phan_17
Phan_18
Phan_19
Phan_20
Phan_21
Phan_22
Phan_23
Phan_25
Phan_26
Phan_27
Phan_28
Phan_29
Phan_30
Phan_31
Phan_32
Phan_33
Phan_34
Phan_35
Phan_36
Phan_37
Phan_38
Phan_39
Phan_40
Phan_41
Phan_42
Phan_43
Phan_44
Phan_45
Phan_46
Phan_47
Phan_48
Phan_49
Phan_50
Phan_51
Phan_52
Phan_53 end
Phan_gioi_thieu
Nếu muốn nhận thông tin bài viết mới của trang thì like ở dưới hoặc truy cập trực tiếp CLICK

TRANG CHỦ
Truyện Teen   Ngôn Tình   Đam Mỹ   Bách Hợp   Mẹo Hay   Trà Sữa   Truyện Tranh   Room Chat   Ảnh Comment   Gà Cảnh   Hình Nền   Thủ Thuật Facebook  
Facebook  Tiện Ích  Xổ Số  Yahoo  Gmail  Dịch  Tải Opera  Đọc Báo 

Lưu địa chỉ wap để tiện truy cập lần sau. Từ khóa tìm kiếm: chatthugian

C-STAT .